Bệnh võng mạc do tia xạ

Bệnh võng mạc là tên gọi chung của một số chứng bệnh về mắt do rối loạn trong võng mạc (hay còn gọi là đáy mắt). Bệnh đứng Thứ Hai, sau đục thủy tinh thể trong các loại bệnh gây mù lòa. Bệnh võng mạc do tia xạ là bệnh mạch máu võng mạc phát triển chậm, khởi phát muộn sau khi tiếp xúc với tia xạ.



Võng mạc là lớp mô thần kinh của mắt và hoạt động như một cuốn phim trong máy quay. Khi ánh sáng đi vào lòng mắt, nó xuyên qua giác mạc, thủy tinh thể và được hội tụ trên võng mạc. Võng mạc có chức năng chuyển năng lượng ánh sáng thành thị lực và gửi nội dung ngược về não qua những dây thần kinh thị giác. Hoàng điểm là phần trung tâm và nhạy cảm của võng mạc, nó bổ sung thông tin cũng như độ đun nét của thị lực.

Bệnh xuất hiện sau liệu pháp chiếu tia điều trị u trong mắt và vùng đầu - mặt - cổ

Bệnh võng mạc do tia có thể xảy ra sau liệu pháp chiếu tia bên ngoài chữa trị u hốc mắt, u xoang, u mũi họng, u sọ mặt hoặc đặt đĩa hoạt tính phóng xạ ở thành nhãn cầu để chữa trị u trong mắt. Bệnh võng mạc do tia có thể thể hiện 6 tháng đến 8 năm, hay gặp nhất từ 6 tháng đến 3 năm sau chữa trị tia. Bệnh võng mạc do tia xảy ra sớm hơn với liệu pháp đặt đĩa cobalt củng mạc và muộn hơn nếu điều trị tia các u cạnh hốc mắt.

Lúc liều tia mỗi ngày hoặc tổng liều tia càng lớn thì càng có nguy cơ tổn thương võng mạc và bệnh võng mạc do tia càng nặng. Với liệu pháp chiếu tia bên ngoài, tỷ lệ bệnh võng mạc do tia tăng khi tổng liều tia trên 45Gy; nếu tổng liều tia dưới 25Gy và liều tia hàng ngày không quá 2Gy sẽ tương đối ít gây bệnh võng do tia. Với liệu pháp đặt đĩa cobalt, tổng liều tia để có khả năng gây bệnh võng mạc cao gấp 2-3 lần so với liệu pháp tia bên ngoài. Liệu pháp tia dù ở liều thấp có khả năng gây bệnh võng mạc do tia nếu có phối hợp hóa trị liệu. Cơ địa đái tháo đường, tăng huyết áp là những nhân tố tăng nguy cơ bệnh võng mạc do tia.

Dấu hiệu nhận biết

Tia xạ gây thương tổn tế bào nội mô mạch máu dẫn tới tắc mao mạch và tạo thành vi phình mạch võng mạc. người bệnh có giảm thị lực.

Soi đáy mắt: Phù hoàng điểm là giai đoạn sớm và phổ biến nhất của bệnh. Những biến đổi vi mạch võng mạc gồm vi phình mạch và giãn mao mạch võng mạc, tiếp theo có xuất tiết bông, những vùng mao mạch không ngấm máu, xuất huyết trong võng mạc, xuất tiết cứng, phù đĩa thị hoặc teo đĩa thị, có khả năng có lồng bao mạch máu (viền trắng ở thành mạch máu). Hẹp tiểu động mạch, tắc mạch võng mạc lan rộng dẫn tới tân mạch võng mạc và đĩa thị, tân mạch mống mắt và có thể biến chứng xuất huyết dịch kính, bong võng mạc co kéo, glocom tân mạch.



Chụp mạch đáy mắt huỳnh quang có phù hoàng điểm, tăng tính thấm thành mạch, vi phình mạch, có khả năng thấy tắc mạch võng mạc, những vùng thiếu máu võng mạc, tân mạch võng mạc và đĩa thị.

Chẩn đoán chỉ định bệnh võng mạc do tia dựa trên tiền sử điều trị tia xạ vùng mắt, đầu - mặt - cổ và các dấu hiệu đáy mắt đã mô tả, trong đó tiền sử chữa trị tia là rất cần thiết.

Chữa trị thế nào?

Những trường hợp phù hoàng điểm không do thiếu máu có thể điều trị quang đông laser dạng lưới, phù giảm và thị lực khôi phục ở nhiều người bị bệnh.

Quang đông tất cả võng mạc (trừ vùng võng mạc trung tâm) lúc có thiếu máu võng mạc, tân mạch võng mạc.
Tiêm bevacizumab (Avastin) hoặc triamcinolon vào dịch kính cũng có kết quả trong một số trường hợp bệnh võng mạc do tia. Bevacizumab chống nhân tố phát triển nội mô mạch máu nên làm giảm quá trình sinh mạch và rò mạch, triamcinolon căn chỉnh tính thấm của mao mạch nên có công dụng giảm phù hoàng điểm.

Các biện pháp điều trị khác gồm liệu pháp quang đông, ôxy cao áp (nhằm cải thiện liệu trình ôxy hóa), uống pentoxifyllin (tác dụng giãn mạch, cải tiến lưu thông máu ở mắt).

Cắt dịch kính nếu xuất huyết dịch kính không tiêu hoặc bong võng mạc co kéo.

Che chắn các cấu tạo mắt khi thực hiện liệu pháp chiếu tia bên ngoài có khả năng giảm bớt được bệnh võng mạc do tia.

Quà tặng bạn